Home »
Thứ Hai, 10 tháng 3, 2014
Phân loại đàn Guitar( P2)
Các bạn đã biết cơ bản về một số loại đàn guitar trong Phân loại đàn Guitar( P1). Tiếp theo phần 2 cho series bài phân lại đàn guitar cho những bạn muốn tìm hiểu cũng như hoc dan guitar, chúng ta cùng tìm hiều về các cách phân loại còn lại của dan guitar
Ghi-ta Ba-rốc (Baroque) và ghi-ta Phục Hưng (Renaissance)
Tiền thân của ghi-ta hiện đại. So với ghi-ta cổ điển, nó nhỏ và thanh tú hơn, và âm thanh phát ra cũng nhỏ hơn. Nó có dây đạt thành cặp như ghi-ta 12 dây, nhưng chỉ có 3-4 cặp, khác với ghi-ta 12 dây có 6 cặp ứng với đủ 12 dây. Ghi-ta Ba-rốc được dùng để đánh đệm cũng như đánh đơn, và thường được thấy trong các buổi biểu diễn âm nhạc vào thời kỳ sớm của lịch sử âm nhạc (500-1760 CN) (Instrucción de Música sobre la Guitarra Española của Gaspar Sanz xuất bản vào năm 1674 bao gồm rất nhiều bài ghi-ta đánh đơn trong thời kỳ đó). Trong khi ghi-ta Ba-rốc có thân đàng phẳng thì ghi-ta Phục Hưng được trang trí rất cầu kỳ với những lớp gổ và ngà voi trang trí trên khắp thân và cổ đàn, và một paper-cutout inverted “bánh cưới” phía trong lỗ thân đàn.
Ghi-ta cổ điển (Classical guitar)
Hiện nay, các loại ghi-ta cổ điển sử dụng trong dàn nhạc giao hưởng Niibori Guitar được phân loại như sau:
Ghi-ta sopranino hay ghi-ta piccolo, với quãng tám và quãng năm cao hơn bình thường một chút.
Ghi-ta soprano, với quãng tám cao hơn bình thường.
Ghi-ta alto, với quãng năm cao hơn bình thường.
Ghi-ta chính (ghi-ta cổ điển nguyên mẫu).
Ghi-ta đệm Niibori, với quãng bốn thấp hơn bình thường. Niibori thường chỉ đơn giản gọi đó là “ghi-ta đệm”, mặc dù ghi-ta đệm của Niibori khác với các loại ghi-ta đệm thông thường.
Đại hồ cầm, với quãng tám thấp hơn bình thường.
Ghi-ta 12 dây
Ghi-ta Torres
Nhạc cụ này là kẻ tiền nhiệm của loại ghita thùng hiện đại. Nó có những thiết bị tăng âm nằm trong khuôn đúc hình nan quạt ở cạnh dưới của mặt thân đàn. Những thiết bị này giúp âm thanh phát ra lớn hơn.
Ghita Torres thuộc bộ dây, âm vực rộng 3,5 quãng tám, tổng chiều dài 81 cm. Thân đàn bằng gỗ với 6 dây ruột mèo (gut). Trước năm 1852, nghệ nhân Tây Ban Nha Antonio de Torres Jurrado đã chế tạo ra nhạc cụ này, do đó nó được đặt tên là Torres guitar, một loại nhạc cụ đã trở thành chuẩn mực cho loại classical guitar hiện đại. Ghita Torres lớn hơn những loại ghita trước đấy, đặc biệt là ở phần thân đàn. Về sau, người ta đã tái cấu trúc phần bên trong thân đàn để âm thanh vang lớn hơn nữa.
Ghi-ta Hawaii
Ghita Hawaii có 6 dây nhưng không có phím. Người chơi dùng một thanh (khối) kim loại (bằng đồng, thép không rỉ…) ở tay trái chặn trên cần đàn để tạo nên các phím. Độ dài ngắn của đoạn dây đàn bị chặn sẽ tạo ra các nốt. Ghita Hawaii chơi rất nhiều bồi âm, có rất nhiều bồi âm vì độ dài dây đàn có thể thay đổi được, và các bồi âm ấy du dương hơn tiếng ghita thông thường.
Tay phải để gẩy có 1 bộ 4 móng (tương tự móng của người chơi đàn tranh) lắp vào 4 ngón: cái, trỏ, giữa, nhẫn.
Dây của ghita Hawaii là dây trơn, không có vỏ bọc cả 6 dây. 6 dây này cũng không được lên theo các nốt mi, la, rê, sol, si, mi như đàn ghita Tây Ban Nha.
Người chơi khi diễn tấu thì đặt đàn trên đùi. (Gần giống tư thế của những người chơi đàn tranh hoặc đàn tam thập lục).
Ở Việt Nam, nghệ sỹ chơi ghita Hawaii nổi tiếng là Đoàn Chuẩn, Từ Linh.
Ghi-ta thép pêđan (Pedal steel guitar)
Đây cũng là một loại với ghita Hawaii. Nhạc cụ này không có thân đàn, nhưng lại có 2 cần đàn (mỗi cần 10 dây) được đóng khung trên một bàn phím. Ghita thép pêđan là loại đàn có nhiều bàn đạp để chỉnh độ cao của các dây. Để tạo ra những nốt riêng lẻ và các hợp âm, người ta khảy dây và dùng một thanh thép hoặc một ống lướt nhẹ dọc theo chiều dài của dây.
Ghi-ta thép pêđan có âm vực rộng 6 quãng tám, thân đàn và chân thẳng đứng bằng gỗ hoặc kim loại. Nhạc cụ này cao 23 cm, dài từ 71 đến 91 cm. Vào khoảng năm 1830, người ta mang loại đàn này từ Mexico đến Hawaii, thế rồi nhạc cụ này phát triển mạnh và trở thành vật đặc trưng của cư dân đảo Hawaii từ thập niên 1940. Joseph Kekuku (nghệ sĩ Hawaii) là người đầu tiên đã dùng một vật gì đó lướt dọc theo chiều dài của dây trong lúc khảy đàn để tạo ra âm thanh “nhão”. Sau đó, người ta mới sử dụng một thanh thép hoặc một ống để thay thế dụng cụ này.
Một trong những kỹ thuật phổ biến khi chơi Ghi-ta thép pêđan là sử dụng các bàn đạp và đòn bẩy đầu gối để thay đổi độ cao thấp, tạo ra những âm thanh luyến láy.
Ghi-ta điện đầu vòm
Ghita phím lõm
Lục huyền cầm hay ghi-ta Việt Nam, ghita phím lõm, ghi-ta vọng cổ hoặc ghi-ta cải lương là cây đàn được cải biến từ đàn ghi-ta (guitare espagnole moderne) do các nghệ sỹ cải lương Việt Nam sáng tạo ra. Từ cây đàn guitar 6 dây ban đầu, người ta khoét các phím lõm xuống chừng 1 cm, hình bán nguyệt nhằm tạo ra âm thanh khác biệt, tạo độ ngân rung đặc trưng của ca vọng cổ.
Khi dùng chơi nhạc cổ, guitar phím lõm không dùng dây 6.
Dây đàn được lên theo âm giai ngũ cung (pentatonic).
Guitar phím lõm được chủ yếu chơi trong dàn nhạc của cải lương, đờn ca tài tử Nam Bộ.
Guitar điện
Guitar điện, về cấu tạo cơ bản, vẫn giống guitar cổ điển. Gồm 3 phần chính: đầu (machine head), cần (neck) và thân (body).
Điểm khác biệt chủ yếu của guitar điện nằm ở phần thân đàn. Ghita điện có thân đàn đặc và phẳng. Vì không có thân đàn rỗng, ghita điện được khuếch âm bằng những bộ phận cảm ứng từ (pick-up) nối với các cuộn cảm ứng quấn quanh các lõi (bobbin) đặt chìm trong thân đàn. Mỗi cây guitar điện có thể có từ 1 đến 3 pick-up. Trên thân đàn còn có 2 núm điều chỉnh âm lượng và âm sắc (tone) và lỗ để cắm dây dẫn (jack) đến ampli. So với đàn gỗ, dây đàn điện có khuynh hướng mỏng và dẻo hơn.
Ngoài ra, cần của ghita điện thường có 22-24 có thể lên đến 28 ngăn, khuynh hướng thường nhỏ dần từ đầu đàn đến thân đàn.
Ghita điện thuộc bộ dây, âm vực thấp hơn hoặc bằng 4 quãng tám. Nó là sản phẩm tổng hợp từ gỗ, kim loại và plastic. Chiều dài của đàn từ 97 cm đến 102 cm.
Ở Mỹ, người ta đã nhiều lần thử nghiệm nhạc cụ này từ thập niên 1920 đến thập niên 1930. Ban đầu, nó là một ghita thùng gắn bộ khuếch âm ở thân đàn. Đến đầu thập niên 1950, Paul Bigsby và sau đó là Leo Fender đã cải tiến thành đàn ghita rắn đặc với hình dạng như ngày nay ta thường thấy.
Ghita điện thường được diễn tấu chủ yếu theo phong cách nhạc nhẹ. Tùy vào từng thể loại, từng dòng nhạc mà guitar điện được chế tạo theo những nét riêng biệt một cách phù hợp nhất.
Với người chơi jazz, blues, cây ghi-ta có 3 pick-ups đơn (single-coiled pick-ups) tạo ra âm sắc lạnh và “leng keng” rất được ưa chuộng. Còn với những người chơi nhạc rock, cây ghi-ta có 2 pick-ups kép (humbuckle tone) tạo nên âm sắc trầm ấm, dày dặn co tính kim loai đặc trưng luôn là lựa chọn số 1.
Xem thêm về phân loại đàn guitar phần 3
Tags:
Ghi-ta Ba-rốc (Baroque) và ghi-ta Phục Hưng (Renaissance)
Tiền thân của ghi-ta hiện đại. So với ghi-ta cổ điển, nó nhỏ và thanh tú hơn, và âm thanh phát ra cũng nhỏ hơn. Nó có dây đạt thành cặp như ghi-ta 12 dây, nhưng chỉ có 3-4 cặp, khác với ghi-ta 12 dây có 6 cặp ứng với đủ 12 dây. Ghi-ta Ba-rốc được dùng để đánh đệm cũng như đánh đơn, và thường được thấy trong các buổi biểu diễn âm nhạc vào thời kỳ sớm của lịch sử âm nhạc (500-1760 CN) (Instrucción de Música sobre la Guitarra Española của Gaspar Sanz xuất bản vào năm 1674 bao gồm rất nhiều bài ghi-ta đánh đơn trong thời kỳ đó). Trong khi ghi-ta Ba-rốc có thân đàng phẳng thì ghi-ta Phục Hưng được trang trí rất cầu kỳ với những lớp gổ và ngà voi trang trí trên khắp thân và cổ đàn, và một paper-cutout inverted “bánh cưới” phía trong lỗ thân đàn.
Ghi-ta cổ điển (Classical guitar)
Nhạc cụ này được chế tạo từ một bản thiết
kế vào khoảng 150 năm trước đây. Nó là loại đàn ghi-ta thùng có 6 dây
(thường làm bằng nilon), âm thanh phát ra nghe êm dịu. Nhạc cụ này có
thể được dùng trong rất nhiều loại thể loại nhạc khác nhau: từ nhạc Tây
Ban nha, folk, jazz cho tới nhạc độc tấu và hòa tấu và thường được chơi
khi nhạc công ngồi tại một vị trí cố định.
Ghi-ta cổ điển thuộc bộ dây, âm vực rộng khoảng 3 quãng tám, được chế
tạo từ nhiều loại gỗ khác nhau, có chiều dài xấp xỉ 1 m. Nhạc cụ này
phát triển từ thời Trung cổ. Thời kỳ đầu, nó xuất hiện ở Tây Ban Nha và
Ý, giai đoạn ấy nó có hình dáng nhỏ gọn hơn loại Ghi-ta cổ điển ngày
nay.Hiện nay, các loại ghi-ta cổ điển sử dụng trong dàn nhạc giao hưởng Niibori Guitar được phân loại như sau:
Ghi-ta sopranino hay ghi-ta piccolo, với quãng tám và quãng năm cao hơn bình thường một chút.
Ghi-ta soprano, với quãng tám cao hơn bình thường.
Ghi-ta alto, với quãng năm cao hơn bình thường.
Ghi-ta chính (ghi-ta cổ điển nguyên mẫu).
Ghi-ta đệm Niibori, với quãng bốn thấp hơn bình thường. Niibori thường chỉ đơn giản gọi đó là “ghi-ta đệm”, mặc dù ghi-ta đệm của Niibori khác với các loại ghi-ta đệm thông thường.
Đại hồ cầm, với quãng tám thấp hơn bình thường.
Ghi-ta 12 dây
Là loại đàn ghi-ta có 12 dây, nhiều gấp đôi
số lượng dây của loại ghita thùng chuẩn mực. Nói cách khác, nó là loại
ghi-ta có 6 cặp dây dựa theo loại ghi-ta thông thường: cặp dây số 1 là
nốt Mi; cặp số 2 là nốt Si; cặp số 3 là nốt Sol; cặp số 4 là nốt Rê; cặp
số 5 là nốt La và cặp số 6 là nốt Mi (thấp hơn nốt Mi của cặp dây số 1
đúng 2 quãng tám).
Ghi-ta 12 dây thuộc bộ dây, âm vực khoảng 3 quãng tám, được chế tạo
từ gỗ, kim loại và plastic. Đầu thế kỷ 19, người ta đã gắn thêm volume
để nhạc cụ này tăng thêm cường độ âm thanh. Trong ban nhạc, nhiệm vụ của
ghi-ta 12 dây là đệm hợp âm giữ nhịp. Nó phát ra âm thanh khá “chói
tai” như thể có 2 cây ghi-ta cùng được sử dụng một lúc.Ghi-ta Torres
Nhạc cụ này là kẻ tiền nhiệm của loại ghita thùng hiện đại. Nó có những thiết bị tăng âm nằm trong khuôn đúc hình nan quạt ở cạnh dưới của mặt thân đàn. Những thiết bị này giúp âm thanh phát ra lớn hơn.
Ghita Torres thuộc bộ dây, âm vực rộng 3,5 quãng tám, tổng chiều dài 81 cm. Thân đàn bằng gỗ với 6 dây ruột mèo (gut). Trước năm 1852, nghệ nhân Tây Ban Nha Antonio de Torres Jurrado đã chế tạo ra nhạc cụ này, do đó nó được đặt tên là Torres guitar, một loại nhạc cụ đã trở thành chuẩn mực cho loại classical guitar hiện đại. Ghita Torres lớn hơn những loại ghita trước đấy, đặc biệt là ở phần thân đàn. Về sau, người ta đã tái cấu trúc phần bên trong thân đàn để âm thanh vang lớn hơn nữa.
Ghi-ta Hawaii
Ghita Hawaii có 6 dây nhưng không có phím. Người chơi dùng một thanh (khối) kim loại (bằng đồng, thép không rỉ…) ở tay trái chặn trên cần đàn để tạo nên các phím. Độ dài ngắn của đoạn dây đàn bị chặn sẽ tạo ra các nốt. Ghita Hawaii chơi rất nhiều bồi âm, có rất nhiều bồi âm vì độ dài dây đàn có thể thay đổi được, và các bồi âm ấy du dương hơn tiếng ghita thông thường.
Tay phải để gẩy có 1 bộ 4 móng (tương tự móng của người chơi đàn tranh) lắp vào 4 ngón: cái, trỏ, giữa, nhẫn.
Dây của ghita Hawaii là dây trơn, không có vỏ bọc cả 6 dây. 6 dây này cũng không được lên theo các nốt mi, la, rê, sol, si, mi như đàn ghita Tây Ban Nha.
Người chơi khi diễn tấu thì đặt đàn trên đùi. (Gần giống tư thế của những người chơi đàn tranh hoặc đàn tam thập lục).
Ở Việt Nam, nghệ sỹ chơi ghita Hawaii nổi tiếng là Đoàn Chuẩn, Từ Linh.
Ghi-ta thép pêđan (Pedal steel guitar)
Đây cũng là một loại với ghita Hawaii. Nhạc cụ này không có thân đàn, nhưng lại có 2 cần đàn (mỗi cần 10 dây) được đóng khung trên một bàn phím. Ghita thép pêđan là loại đàn có nhiều bàn đạp để chỉnh độ cao của các dây. Để tạo ra những nốt riêng lẻ và các hợp âm, người ta khảy dây và dùng một thanh thép hoặc một ống lướt nhẹ dọc theo chiều dài của dây.
Ghi-ta thép pêđan có âm vực rộng 6 quãng tám, thân đàn và chân thẳng đứng bằng gỗ hoặc kim loại. Nhạc cụ này cao 23 cm, dài từ 71 đến 91 cm. Vào khoảng năm 1830, người ta mang loại đàn này từ Mexico đến Hawaii, thế rồi nhạc cụ này phát triển mạnh và trở thành vật đặc trưng của cư dân đảo Hawaii từ thập niên 1940. Joseph Kekuku (nghệ sĩ Hawaii) là người đầu tiên đã dùng một vật gì đó lướt dọc theo chiều dài của dây trong lúc khảy đàn để tạo ra âm thanh “nhão”. Sau đó, người ta mới sử dụng một thanh thép hoặc một ống để thay thế dụng cụ này.
Một trong những kỹ thuật phổ biến khi chơi Ghi-ta thép pêđan là sử dụng các bàn đạp và đòn bẩy đầu gối để thay đổi độ cao thấp, tạo ra những âm thanh luyến láy.
Ghi-ta điện đầu vòm
Là loại đàn ghi-ta đầu vòm truyền thống đã
được cải tiến vào cuối thập niên 1930. Ghita điện đầu vòm thuộc bộ dây,
có âm vực rộng trên 3 quãng tám, thân đàn làm bằng gỗ với 6 dây đàn kim
loại. Nhạc cụ này rất thông dụng đối với những nhạc sĩ chơi nhạc Jazz.
Trong thập niên 1940, ghita điện đầu vòm được cải tiến khá nhiều, kết
hợp thêm một cutaway, những bộ cảm ứng âm thanh và một công tắc chọn độ
rung âm thanh (selector switch). Loại đàn này phát ra tiếng êm dịu và
ấm. Nếu gắn thêm những thiết bị điện tử khác, người ta có thể chơi những
nốt riêng lẻ hay tạo thành giai điệu hoặc độc tấu.
Ghita điện đầu vòm là nhạc cụ gợi ý cho sự phát triển loại ghita điện tử có thân đàn rắn đặc ngày nay.Ghita phím lõm
Lục huyền cầm hay ghi-ta Việt Nam, ghita phím lõm, ghi-ta vọng cổ hoặc ghi-ta cải lương là cây đàn được cải biến từ đàn ghi-ta (guitare espagnole moderne) do các nghệ sỹ cải lương Việt Nam sáng tạo ra. Từ cây đàn guitar 6 dây ban đầu, người ta khoét các phím lõm xuống chừng 1 cm, hình bán nguyệt nhằm tạo ra âm thanh khác biệt, tạo độ ngân rung đặc trưng của ca vọng cổ.
Khi dùng chơi nhạc cổ, guitar phím lõm không dùng dây 6.
Dây đàn được lên theo âm giai ngũ cung (pentatonic).
Guitar phím lõm được chủ yếu chơi trong dàn nhạc của cải lương, đờn ca tài tử Nam Bộ.
Guitar điện
Guitar điện, về cấu tạo cơ bản, vẫn giống guitar cổ điển. Gồm 3 phần chính: đầu (machine head), cần (neck) và thân (body).
Điểm khác biệt chủ yếu của guitar điện nằm ở phần thân đàn. Ghita điện có thân đàn đặc và phẳng. Vì không có thân đàn rỗng, ghita điện được khuếch âm bằng những bộ phận cảm ứng từ (pick-up) nối với các cuộn cảm ứng quấn quanh các lõi (bobbin) đặt chìm trong thân đàn. Mỗi cây guitar điện có thể có từ 1 đến 3 pick-up. Trên thân đàn còn có 2 núm điều chỉnh âm lượng và âm sắc (tone) và lỗ để cắm dây dẫn (jack) đến ampli. So với đàn gỗ, dây đàn điện có khuynh hướng mỏng và dẻo hơn.
Ngoài ra, cần của ghita điện thường có 22-24 có thể lên đến 28 ngăn, khuynh hướng thường nhỏ dần từ đầu đàn đến thân đàn.
Ghita điện thuộc bộ dây, âm vực thấp hơn hoặc bằng 4 quãng tám. Nó là sản phẩm tổng hợp từ gỗ, kim loại và plastic. Chiều dài của đàn từ 97 cm đến 102 cm.
Ở Mỹ, người ta đã nhiều lần thử nghiệm nhạc cụ này từ thập niên 1920 đến thập niên 1930. Ban đầu, nó là một ghita thùng gắn bộ khuếch âm ở thân đàn. Đến đầu thập niên 1950, Paul Bigsby và sau đó là Leo Fender đã cải tiến thành đàn ghita rắn đặc với hình dạng như ngày nay ta thường thấy.
Ghita điện thường được diễn tấu chủ yếu theo phong cách nhạc nhẹ. Tùy vào từng thể loại, từng dòng nhạc mà guitar điện được chế tạo theo những nét riêng biệt một cách phù hợp nhất.
Với người chơi jazz, blues, cây ghi-ta có 3 pick-ups đơn (single-coiled pick-ups) tạo ra âm sắc lạnh và “leng keng” rất được ưa chuộng. Còn với những người chơi nhạc rock, cây ghi-ta có 2 pick-ups kép (humbuckle tone) tạo nên âm sắc trầm ấm, dày dặn co tính kim loai đặc trưng luôn là lựa chọn số 1.
Xem thêm về phân loại đàn guitar phần 3
You may also...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét